Tôi 34 tuổi, vợ tôi 33, sống với nhau gần 5 năm, chưa có con. Ngay từ đầu đã thống nhất: Tôi đi làm kiếm tiền, vợ không có việc làm nên ở nhà lo nội trợ.
Mỗi tháng tôi chuyển toàn bộ lương 45 triệu đồng vào tài khoản của vợ, giữ lại khoảng 2 triệu đồng đổ xăng, việc vặt. Tôi tin tưởng nên không bao giờ hỏi chi tiết chi tiêu.
Chúng tôi thuê nhà ở tạm, mỗi tháng 7 triệu đồng tích cóp mua nhà. Tôi cứ nghĩ với mức thu nhập như vậy, mỗi tháng tiết kiệm vài chục phần trăm, sau vài năm chắc cũng phải để được một khoản. Vợ nói có ghi chép cẩn thận nhưng tôi chưa từng xem, cũng không đòi xem.
Gần đây, vợ chồng bất hòa, cô ấy đòi ly hôn. Ngồi bàn đến tài sản, hỏi số tiền tiết kiệm bao năm qua, vợ nói "chi tiêu hết rồi", không còn gì cả. Tôi hỏi lại sổ chi tiêu, giấy tờ gì chứng minh, cô ấy chỉ nói "không còn giữ".
Tôi thực sự choáng. Số tiền tôi chuyển vào tài khoản vợ trong nhiều năm không hề nhỏ. Tôi không muốn tính toán từng đồng, nhưng tin rằng nếu có phần tiết kiệm thì đó là tài sản chung, không thể một mình giữ hoặc phủ nhận.
Tôi muốn hỏi: Trong trường hợp toàn bộ tiền trong hôn nhân do một bên giữ, và giờ nói chi hết nhưng không chứng minh được thì tôi có thể yêu cầu Tòa xem xét phần đóng góp của mình như thế nào? Tôi có căn cứ gì và làm thế nào để đòi lại một phần không? Xin được tư vấn và cảm ơn rất nhiều.
Độc giả Trung Tín
Luật sư tư vấn:
Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng gồm: tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này (quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân); tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Về tài sản riêng của vợ, chồng, Điều 43 Luật này quy định tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Ngoài ra, điều luật còn quy định tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng.
Về nguyên tắc chế độ tài sản vợ chồng, khoản 1 Điều 29 Luật này quy định vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
Như vậy, với quy định nói trên, dù vợ bạn chỉ ở nhà nội trợ nhưng số tiền bạn kiếm được hàng tháng vẫn được xác định là tài sản chung của vợ, chồng. Vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
Việc bạn cho rằng vợ bạn phải có tích lũy, tiết kiệm chứ không thể tiêu hết số tiền đó thì bạn có nghĩa vụ phải chứng minh như cô ấy có cho ai vay, mượn hoặc gửi tiết kiệm, đầu tư góp vốn, mua vàng, chứng khoán... hay không.
Trường hợp tranh chấp được tòa án giải quyết thì tòa án cũng sẽ yêu cầu cô ấy làm rõ chi tiêu như thế nào mà tiêu hết số tiền chồng đưa. Tuy nhiên, vợ bạn có thể quanh co hoặc từ chối làm rõ thì cũng không có căn cứ để giải quyết. Tòa án không thể chia tài sản khi tài sản đó chỉ xuất phát từ lời khai của một bên mà không có các chứng cứ khác chứng minh.
Do vậy, nghĩa vụ chứng minh chính thuộc về bạn. Nếu bạn không thể chứng minh được thì tòa án không có căn cứ để xem xét, chấp nhận yêu cầu chia tài sản của bạn.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty Luật Bảo An, Hà Nội







