Em làm việc được 2 năm, vừa xin nghỉ giữa tháng 4 vừa qua. Nay công ty báo, theo quy định thuế, mức lương lĩnh trên 2 triệu đồng mỗi lần trở lên phải thực hiện khấu trừ thuế thu nhập cá nhân 10%, nên yêu cầu em đóng.
Em thắc mắc công ty làm vậy có đúng không? Giờ em phải làm sao?
Luật sư tư vấn:
Điểm a, b khoản 1 Điều 31 Nghị định số 65/2013/NĐ-CPquy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân (Điều khoản này đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 16 Điều 2 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP) thì tổ chức, cá nhân có trách nhiệm khấu trừ thuế khi trả thu nhập cho cá nhân như sau:
a) Đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân có ký hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên: Hàng tháng tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập khấu trừ thuế của từng cá nhân căn cứ vào thu nhập tính thuế tháng và biểu thuế Lũy tiến từng phần; tạm tính giảm trừ gia cảnh theo bản khai của người nộp thuế để tính số thuế phải nộp trong tháng, thực hiện khấu trừ thuế và không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc khai tạm tính giảm trừ gia cảnh này.
Tổ chức, cá nhân trả thu nhập thực hiện khai thuế, nộp thuế vào ngân sách nhà nước theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 30 Nghị định này và theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
b) Đối với các khoản tiền công, tiền chi khác cho cá nhân không ký hợp đồng lao động hoặc ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng: Tổ chức, cá nhân chỉ trả thu nhập có trách nhiệm tạm khấu trừ thuế (khấu trừ thuế tại nguồn) theo tỷ lệ 10% trên số thu nhập trả cho cá nhân. Cá nhân có thu nhập tạm khấu trừ thuế quy định tại Khoản này không phải khai thuế theo tháng.
Theo hướng dẫn tại điểm i khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính, các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.
Trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế thu nhập cá nhân.
Căn cứ cam kết của người nhận thu nhập, tổ chức trả thu nhập không khấu trừ thuế. Kết thúc năm tính thuế, tổ chức trả thu nhập vẫn phải tổng hợp danh sách và thu nhập của những cá nhân chưa đến mức khấu trừ thuế (vào mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) và nộp cho cơ quan thuế. Cá nhân làm cam kết phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của Luật Quản lý thuế.
Như vậy, với quy định nói trên, trường hợp giữa bạn và người sử dụng lao động ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.
Nếu bạn đã có bản cam kết thì người sử dụng lao động không được khấu trừ thuế. Trường hợp ký hợp đồng lao động có thời hạn trên 3 tháng thì người sử dụng lao động khấu trừ thuế của người lao động căn cứ vào thu nhập tính thuế tháng và biểu thuế Lũy tiến từng phần mà không được khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi chi trả.
Tuy nhiên, dù theo phương thức nào thì người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm cung cấp chứng từ khấu trừ thuế TNCN cho người lao động (nếu người lao động có yêu cầu) để người lao động quyết toán thuế với cơ quan quản lý thuế. Trường hợp nếu thu nhập cả năm chưa đến mức phải nộp thuế TNCN thì người lao động sẽ được hoàn lại thuế đã đóng.
Để bảo vệ quyền lợi của mình, bạn nên yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp cho bạn chứng từ khấu trừ thuế TNCN để bạn quyết toán thuế và hoàn thuế. Nếu họ không cung cấpm bạn có quyền làm đơn khiếu nại gửi công đoàn của công ty (nếu có) hoặc cơ quan lao động, thương binh và xã hội cấp huyện nơi doanh nghiệp có trụ sở để được giải quyết. Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi đơn đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp của doanh nghiệp để được xem xét, hỗ trợ.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty luật Bảo An, Hà Nội
Nguồn: https://vnexpress.net/luong-toi-2-9-trieu-dong-vi-sao-cong-ty-bat-dong-thue-10-4462079-p2.html